Các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Lao Động Trong Nước

Các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Lao Động Trong Nước

Chọn liên kết Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Bộ Giáo dục và Đào tạo BỘ Y tế Bộ giao thông vân tải

Chọn liên kết Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Bộ Giáo dục và Đào tạo BỘ Y tế Bộ giao thông vân tải

THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TĂNG QUA CÁC NĂM

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổng hợp báo cáo của 1.166 doanh nghiệp, gồm: 84 công ty mẹ - Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91/TTg; 582 công ty thành viên của Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91/TTg; 500 công ty thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, với tổng số lao động năm 2023 khoảng 844.500 người.

Kết quả cho thấy về tiền lương của người lao động, năm 2021, tiền lương bình quân chung đạt 16,5 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 18,5 triệu đồng/tháng.

Năm 2022, tiền lương bình quân chung đạt 17,8 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 20,2 triệu đồng/tháng. Năm 2023, tiền lương bình quân chung đạt 18,5 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân đạt 20,3 triệu đồng/tháng.

Riêng 84 công ty mẹ - Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91/TTg, với khoảng 316.900 lao động, tiền lương bình quân năm 2021 đạt 20,67 triệu đồng/tháng, năm 2022 đạt 22,96 triệu đồng/tháng, năm 2023 đạt 24,5 triệu đồng/tháng.

Xét theo loại hình, ở doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước: Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 16,83 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 18,58 triệu đồng/tháng. Năm 2022 tiền lương bình quân đạt 17,89 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 19,79 triệu đồng/tháng. Con số này ở năm 2023 lần lượt đạt 18 triệu đồng và 19,44 triệu đồng/tháng.

Đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối: Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 16,22 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 18,49 triệu đồng/tháng. Mức này ở năm 2022 lần lượt đạt 17,75 triệu đồng; 20,68 triệu đồng/tháng; và năm 2023 đạt lần lượt là 19,13 triệu đồng và 21,39 triệu đồng/tháng.

Về tiền lương của người quản lý, Kiểm soát viên, năm 2021 tiền lương bình quân chung đạt 37,92 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 41,46 triệu đồng/tháng. Năm 2022 tiền lương này đạt 39,26 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 43,02 triệu đồng/tháng. Năm 2023, mức này đạt 41,68 triệu đồng và 45,15 triệu đồng/tháng.

Riêng 84 công ty mẹ - Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty 91/TTg, tiền lương bình quân năm 2021 đạt 60,45 triệu đồng/tháng, năm 2022 đạt 65,4 triệu đồng/tháng, năm 2023 đạt 63,93 triệu đồng/tháng.

Mức tiền lương và thu nhập của người quản lý, Kiểm soát viên cũng có sự chênh lệch giữa các loại hình doanh nghiệp. Trong đó, đối với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, năm 2021 tiền lương bình quân đạt 31,17 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 34,11 triệu đồng/tháng. Mức này ở năm 2022 lần lượt là 31,95 triệu đồng; 35,09 triệu đồng; và năm 2023 lần lượt đạt 34,31 triệu đồng; 37,35 triệu đồng.

Đối với công ty có cổ phần, vốn góp chi phối (người quản lý là người đại diện phần vốn Nhà nước): Năm 2021 tiền lương bình quân đạt 44,35 triệu đồng/tháng, thu nhập đạt 48,47 triệu đồng/tháng; năm 2022 lần lượt đạt 46,21 triệu đồng và 50,57 triệu đồng/tháng; con số này của năm 2023 đạt lần lượt 48,72 triệu đồng và 52,6 triệu đồng/tháng.

Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đánh giá, cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng hiện hành đối với doanh nghiệp Nhà nước được điều chỉnh phù hợp với từng mô hình chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước, góp phần thúc đẩy các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp tích cực sắp xếp lại tổ chức sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động.

Nhà nước bảo đảm quyền tự chủ cho doanh nghiệp trong việc tuyển dụng, sử dụng lao động; quyết định thang, bảng lương, xếp lương, nâng lương, quỹ tiền lương theo nguyên tắc năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh tăng thì tiền lương tăng và ngược lại.

Từ đó, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thiết lập thang giá trị lao động. Tiền lương ổn định và tăng theo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cải thiện 8 - 10%/năm.

Đồng thời, thực hiện trả lương đối với người lao động theo kết quả, hiệu quả công việc, không hạn chế mức lương tối đa đối với lao động chuyên môn, kỹ thuật cao, các tài năng có nhiều cống hiến cho doanh nghiệp. Điều này tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sắp xếp tổ chức lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh.

CÒN CHÊNH LỆCH KHÁ LỚN VỀ TIỀN LƯƠNG NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP

Mặc dù vậy, cơ chế quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng hiện hành đối với doanh nghiệp Nhà nước đang phát sinh một số bất cập.

Đơn cử như cơ chế tiền lương đang có sự phân biệt giữa doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần chi phối của Nhà nước. Trong khi, Luật Doanh nghiệp hiện hành quy định doanh nghiệp Nhà nước gồm doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, và doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết.

Bên cạnh đó, chính sách tiền lương quy định nguyên tắc chung gắn tiền lương với năng suất lao động và hiệu quả, nhưng chưa có sự phân biệt rõ theo quy mô năng suất, và hiệu quả giữa các doanh nghiệp.

Điều này dẫn đến có chênh lệch khá lớn về tiền lương, nhất là tiền lương của người quản lý giữa các doanh nghiệp ở 2 loại hình doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, và doanh nghiệp cổ phần chi phối, giữa ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.

Chẳng hạn, ngành sản xuất, công nghiệp, tiền lương bình quân của người quản lý khoảng 40 - 50 triệu đồng/tháng. Trong khi ở các ngành viễn thông khoảng 60 - 90 triệu đồng/tháng; ngành ngân hàng tài chính khoảng 100- 120 triệu đồng/tháng, có doanh nghiệp hiệu quả cao lên đến 200 triệu đồng/tháng.

Mặt khác, tiền lương của người quản lý mặc dù đã được điều chỉnh một bước, nhưng vẫn còn thấp so với các chức danh quản lý tương đương trên thị trường, nên chưa tạo được động lực cho những người quản lý giỏi.

Theo thống kê, một số doanh nghiệp trả lương cho người quản lý từ 130 - 150 triệu đồng/tháng; ngân hàng thương mại trả 150 - 200 triệu đồng/tháng, có trường hợp trả 250 - 300 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, họ còn được hưởng tiền thưởng theo hiệu quả sản xuất, kinh doanh bằng 30 - 50% tiền lương.

Từ thực tế trên, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho rằng việc Chính phủ ban hành Nghị định quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng trong doanh nghiệp Nhà nước là rất cần thiết để khắc phục những bất cập. Đồng thời, góp phần triển khai thực hiện đầy đủ nội dung cải cách tiền lương đối với doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương.

Phòng Lao động Thương binh và xã hội vừa ban hành văn bản thông báo tuyển dụng lao động trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động

TPO - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội xử phạt nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động vi phạm. Ngoài bị phạt tiền, một số doanh nghiệp còn bị đình chỉ hoạt động chuẩn bị nguồn lao động 18 tháng.

Cục Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội vừa xử phạt Công ty TNHH lâm sản Việt Nam - Newzealand số tiền 60 triệu đồng. Công ty này bị xử phạt do lỗi không đảm bảo số lượng nhân viên nghiệp vụ thực hiện quy định về người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Trước đó, Cục Quản lý Lao động ngoài nước cũng xử phạt nhiều công ty xuất khẩu lao động với các lỗi như: Ký không đúng mẫu hợp đồng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; thực hiện không đúng nội dung hợp đồng cung ứng lao động...

Cụ thể, Công ty TNHH Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ Quinn Hà Nội bị xử phạt gần 360 triệu đồng do ký không đúng mẫu hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với 11 người lao động (làm việc tại Hàn Quốc); bị đình chỉ hoạt động chuẩn bị nguồn lao động 18 tháng (bắt đầu từ tháng 10/2023).

Lý do Công ty TNHH Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ Quinn Hà Nội bị xử phạt vì chuẩn bị nguồn lao động đi làm việc tại Hàn Quốc khi chưa có văn bản chấp thuận của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Công ty không cam kết bằng văn bản việc ưu tiên tuyển chọn người lao động đã tham gia hoạt động chuẩn bị nguồn của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp không đăng tải trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp về văn bản của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chấp thuận việc chuẩn bị nguồn lao động; không thực hiện đúng nội dung hợp đồng cung ứng lao động đã đăng ký và được chấp thuận.

Việt Nam hiện có gần 90.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Ảnh minh họa: Trung tâm lao động ngoài nước, Bộ LĐ-TB&XH.

Công ty Cổ phần LMK Việt Nam bị xử phạt 27 triệu đồng vì nộp không đúng thời hạn vào Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo quy định pháp luật; ký không đúng mẫu hợp đồng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đối với 1 lao động đi làm việc tại Hungary.

Công ty TNHH Hợp tác giáo dục quốc tế Thời Đại Mới bị xử phạt 102 triệu đồng do vi phạm không ghi rõ thỏa thuận về tiền dịch vụ và chi phí khác của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với 2 lao động. Công ty này chuẩn bị nguồn lao động đi làm việc tại Nhật Bản khi chưa có văn bản chấp thuận của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; đóng không đúng thời hạn vào Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước theo quy định pháp luật. Công ty bị phạt bổ sung hình thức đình chỉ hoạt động chuẩn bị nguồn lao động 18 tháng.

Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 7 tháng năm nay, cả nước có gần 90.000 lao độnG đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài, đạt gần 72% kế hoạch năm. Các thị trường tiếp nhận số lượng lớn lao động Việt Nam như: Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc…

Lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài trong nhiều loại hình ngành nghề như: Sản xuất, chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, ngư nghiệp và dịch vụ.

(TNO) Ngày 27.3, Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB-XH) cho biết đã ban hành quyết định xử phạt cảnh cáo đối với 5 doanh nghiệp (DN) vi phạm pháp luật lao động về người lao động (NLĐ) Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Đó là các đơn vị: Công ty cổ phần XKLĐ và dịch vụ thương mại Biển Đông - Estralia Jsc; Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh (Mitraco); Công ty sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Chấn Hưng (POLIMEX); Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải (TRACIMEXCO); Công ty TNHH một thành viên sản xuất thương mại và xuất khẩu lao động (VINAHANDCOOP).

Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, 5 DN nêu trên bị xử phạt là do không báo cáo đột xuất về hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.

Mặc dù ngày 15.2.2012, Bộ LĐ-TB-XH có công văn yêu cầu các DN chấn chỉnh công tác đưa lao động đi làm việc ở Đài Loan và báo cáo kết quả thực hiện trước ngày 1.3.2012. Tuy nhiên, cho đến nay 5 DN nêu trên vẫn không thực hiện báo cáo theo quy định.